Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Phẫu thuật cho bướu Wilms

Phẫu thuật cho bướu Wilms

Bướu Wilms, điều trị bao gồm phẫu thuật (cắt thận toàn phần hay bán phần) là ung thư đứng hàng thứ 5 ở trẻ em và là ung thư thận hàng đầu ở trẻ em. Điều trị bướu Wilms là một điển hình thành công do áp dụng kết hợp đa mô thức dựa theo National Wilms' Tumor Study Group (NWTSG) và Societe Internationale d'Oncologie Pediatrique (SIOP).

Trong 50 năm qua, chỉ với phẫu thuật thì tỷ lệ sống còn sau 2 năm sau cắt thận chỉ là 20%. Sau này kết hợp xạ trị hỗ trợ thì tỷ lệ sống còn tăng lên 50%. Nhờ vào sự kết hợp của các nhà ung thư học, phẫu thuật, giải phẫu bệnh và với những thuốc mới vincristine, dactinomycin (actinomycin D), và doxorubicin, thì tỷ lệ sống còn trong thế kỷ 20 lên 90%.

Gross nephrectomy specimen shows a Wilms tumor pus
Bướu đẩy mô thận bình thường sang 1 bên
Giải phẫu

Bướu Wilms có nguồn gốc từ mô thận nguyên thủy của phôi. Đại thể là một bướu đặc hoặc nang, có thể đẩy lệch hệ thống bài tiết trong thận. Bướu xâm lấn tĩnh mạch thận chiếm 40%. Trong những trường hợp hiếm bướu lan xuống tới niệu quản và bàng quang có thể gây tiểu máu. Bướu 2 bên chiếm 6%. Bướu xâm lấn tại chỗ cũng hiếm bướu thường di căn theo đường máu và bạch huyết.

Chống chỉ định 

Khi bướu có cả hai bên và bướu đã di căn. Bướu lớn quá vượt khỏi đường giữa, xâm lấn mạch máu nưng cả hai điều trên chỉ là chống chỉ định tương đối. Vì vài phẫu thuật viên có tể cắt hết bướu đặc nhưng tăng nguy cơ phẫu thuật cho bệnh nhân. 

Cắt thận toàn phần 

Theo phát đồ của NWTSG, bướu đầu tiên trong điều trị là phẫu thuật cắt thận tận gốc nếu có thể được. Thám sát vùng bụng qua đường rạch bụng ngang. Thận được thám sát bắng cách bóc tách đại tràng cùng bên à mở cân Gerota. Thám sát thận đối bên không được khuyến cáo vì đã có những phương tiện chuẩn đoán hình ảnh học tốt. Nếu có bị bệnh cả 2 bên thì không cắt thận nhưng cũng có thể sinh thiết. Phát đồ điều trị bướu 2 bên đang được nghiên cứu và phát triển. Nếu bệnh chỉ có 1 bên thì cắt thận và nạo hạch vùng là cần thiết.

Cắt thận bán phần 

Vai trò cắt thận bán phần vẫn còn đang bàn cãi . Mặc dù suy thận giai đoạn cuối sau cắt tận một bên là hiếm (0,25% trong thủ nghiệm của NWTSG), bảo tồn mô thận lành có thể ngừa biến chứng này, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh nội khoa ( hội chứng  WAGR, và Denys-Drash). Cắt thận bán phần khả thi chỉ trong 10-15% bệnh nhân, vì phần lớn bướu là quá lớn khi phát hiện. Và lo lắng nữa là cắt thận bán phần làm cho bướu tái phát tại chỗ. Theo nghiên cứu NWTS-4 thấy 8% tái phát tại chỗ sau cắt bán phần thận vì bướu 2 bên.[3] Trong trường hợp bướu 2 bên, thận độc nhất, suy thận, thì nên xem xét cắt thận bán phần.

Chuẩn bị trước phẫu thuật 

Nếu bướu không cắt được thì nên sinh thiết sau đó hóa trị cắt thận trì hoãn, trong hầu hết các trường hợp làm bướu nhỏ lại. Sự dính vào cơ quan lân cận thường bị đánh giá quá mức. Biến chứng toàn bộ của phẫu thuật là 20%. Nếu bướu có chồi trong tĩnh mạch thì hóa trị trước phẫu thuật giảm được nguy cơ mở tĩnh mạch lấy chồi 50%

Bướu Wilms 2 bên (6%), mỗ thám sát, sinh thiết 2 bên, đánh giá chính xác giai đoạn (bao gồm sinh thiết hạch hai bên) là nên thực hiện, 6 tuần hóa trị sau đó. Sau đó đánh giá lại bằng chẩn đoán hình ảnh trước khi quyết định điều trị triệt để (1) cắt thận 1 bên và bán phần bên kia (2) cắt thận bán phần 2 bên (3) ch3 cắt thận toàn phần 1 bên, nếu đáp ứng là toàn diện bên đối diện, hướng này làm giảm nguy cơ suy thận. Sống còn 2 năm là cao theo hướng này hơn 80%, tỷ lệ cắt thận giảm 50% ở bệnh nhân có bướu cả hai bên. Cắt thận bán phần 2 bên sau hóa trị hoặc 1 bên đáp ứng tốt hóa trị thì không cần cắt thận.

Hóa trị

Điều trị đa mô thức (phẫu, xạ, hóa) là chìa khóa thành công trong điều trị. [4] Theo khuyến cáo NWTSG hóa trị trước phẫu thuật (sau mở bụng thám sát và sinh thiết) trong những tình huống sau[5, 6, 7] :
  • Bướu xâm lấn vào tĩnh mạch - 5%  và 40% biến cứng phẫu thuật. Ngay cả ở trong tay người ptv giỏi. Vì vậy hóa trị trước phẫu thuật làm nhỏ đi kích thước của chồi tĩnh mạch chiếm 25% biến chứng phẫu thuật.
  • Ở những bướu lớn không thể phẫu thuật được thì hóa trị làm giảm kích thước bướu 50%
  • Bướu  Wilms 2 bên
SIOP cũng khuyến cáo háo trị mà không cần mở bụng thám sát và sinh thiết. NWTSG nói là điều này có thể gặp 1%-5% bướu lành.[8] 

Hóa trị kèm mà không đánh giá giai đoạn phẫu thuật thích hợp (chỉ đánh giá bằng hình ảnh học) có thể thay đổi giai đoạn thật sự ban đầu của bướu lúc phẫu thuật và cuối cùng thay đổi quyết định liên quan tới hóa trị hỗ trợ hay xạ trị, mà điều này dựa trên đánh giá giai đoạn bằng phẫu thuật.

Trong lúc mổ

Rạch da đường mỗ ngang bụng, vào cân Gerota (cân quanh thận) để thám sát thận. Trong trường hợp bướu thận 1 bên tiến hành cắt thận toàn phần nếu bên kia là còn bình thường. Đánh giá gan, hạch, tìm di căn trong phúc mạc. Tĩnh mạch thận và tĩnh mạch chủ dưới nên sớ nắn xem có chồi (6%). Trong trường hợp bướu 2 bên sinh thiết bướu nghi ngờ, sau đó có thể cắt lại sau khi hóa trị để bảo tồn nhu mô thận. Xác định 2 bên có hạch không, đánh dấu bằng clip sắt để sau này có thể xạ trị.

Lấy mẫu phải gọn ràng không rơi vãi mô ung thư ( tăng 6 lần di căn trong ổ bụng).
Hóa trị sau phẫu thuật và xạ trị dựa trên giai đoạn đánh giá bằng phẫu thuật theo hướng dẫn của NWTSG.

Bướu giai đoạn 1, giai đoạn mô học thuận lợi và không thuận lợi hay giai đoạn 2 thì nên : 
  • Cắt thận
  • Sau đó vincristine and actinomycin D (18 tuần)
Giai đoạn II (stage II) anaplasia hoặc giai đoạn III mô hoạc thuận lợi (favorable histology) và focal anaplasia thì:
  • Cắt thận
  • Xạ trị vùng bụng  (1000 cGy)
  • Vincristine, actinomycin D, và doxorubicin (24 tuần)
Giai đoạn IV với mô học thuận lợi hoặc focal anaplasia:
  • Cắt thận
  • Xạ trị vùng bụng phụ thuộc vào giai đoạn tại chỗ
  • Tia xạ phổi 2 bên (1200 cGy) kèm sulfamethoxazole và trimethoprim (Bactrim) phòng ngừa nhiễm Pneumocystis carinii
  • Hóa trị vincristine, actinomycin D, và doxorubicin
Gai đoạn II và IV anaplasia lan tỏa:
  • Cắt thận
  • Xạ trị vùng bụng
  • Xạ trị toàn phổi giai đoạn IV
  • Hóa trị 24 tháng vincristine, actinomycin D, doxorubicin, etoposide, và cyclophosphamide
Bướu 2 bên, có mô học không thuận lợi thường có tiên lượng rất xấu dù điều trị đa mô thức.

Theo dõi

Theo dõi sau điều trị kéo dài (nếu có thể suốt đời), bởi vì bệnh có thể tái phát sau vài năm. Theo dõi bao gồm x-quang ngực, siêu âm bụng, CT hoặc MRI mỗi 3 tháng trong 2 năm đầu, mỗi 6 tháng trong 2 năm tiếp theo, và mỗi 2 năm sau đó.

Tiên lượng

Chất đánh dấu ung thư, mô học, và giai đoạn là những yếu tố tiên lượng quang trọng trong trượng hợp bướu 1 bên. 

Khi áp dụng điều trị đa mô thức thì tiên lượng của bướu Wilm là rất tốt, tỷ lệ sống còn 90%. những trường hợp có anaplasia lan tỏa (diffuse) giai đoạn II hoặc IV có thể có tái phát mặc dù điều trị tối đa có tiên lượng xấu. Tuy nhiên sau khi áp dụng những thuốc mới như cyclophosphamide, ifosfamide, cisplatin, carboplatin, và etoposide, và đặc biệt kết hợp ICE (ifosfamide, carboplatin, etoposide), đã góp phần giảm tái phát đáng kể, tăng tỷ lệ sống còn 50%-60%.[9, 10, 11]

Biến chứng phẫu thuật
  • Tắc ruột đại tràng (7%)
  • Xuất huyết (6%)
  • Nhiễm trùng vết mỗ, thoát vị (4%)
  • Biến chứng mạch máu (2%)
  • Tổn thương ruột và tạng (1.5%)
 Theo Emedicine Medscape Urology
 ---------------------------------------------------------------------------------------------------
  1. Ehrlich PF, Ritchey ML, Hamilton TE, Haase GM, Ou S, Breslow N, et al. Quality assessment for Wilms' tumor: a report from the National Wilms' Tumor Study-5. J Pediatr Surg. Jan 2005;40(1):208-12; discussion 212-3.
  2. Kubiak R, Gundeti M, Duffy PG, Ransley PG, Wilcox DT. Renal function and outcome following salvage surgery for bilateral Wilms' tumor. J Pediatr Surg. Nov 2004;39(11):1667-72.
  3. Haecker FM, von Schweinitz D, Harms D, Buerger D, Graf N. Partial nephrectomy for unilateral Wilms tumor: results of study SIOP 93-01/GPOH. J Urol. Sep 2003;170(3):939-42; discussion 943-4.
  4. Metzger ML, Dome JS. Current therapy for Wilms' tumor. Oncologist. Nov-Dec 2005;10(10):815-26.
  5. Ritchey ML. The role of preoperative chemotherapy for Wilms' tumor: the NWTSG perspective. National Wilms' Tumor Study Group. Semin Urol Oncol. Feb 1999;17(1):21-7.
  6. Bogaert GA, Heremans B, Renard M, Bruninx L, De Wever L, Van Poppel H. Does preoperative chemotherapy ease the surgical procedure for Wilms tumor?. J Urol. Oct 2009;182(4 Suppl):1869-74.
  7. Kalapurakal JA, Peterson S, Peabody EM, Thomas PR, Green DM, D'angio GJ, et al. Pregnancy outcomes after abdominal irradiation that included or excluded the pelvis in childhood Wilms tumor survivors: a report from the National Wilms Tumor Study. Int J Radiat Oncol Biol Phys. Apr 1 2004;58(5):1364-8.
  8. de Kraker J, Graf N, van Tinteren H, Pein F, Sandstedt B, Godzinski J, et al. Reduction of postoperative chemotherapy in children with stage I intermediate-risk and anaplastic Wilms' tumour (SIOP 93-01 trial): a randomised controlled trial. Lancet. Oct 2-8 2004;364(9441):1229-35.
  9. Dome JS, Green DM, Cotton CA, et al. Treatment of anaplastic Wilms tumor: A report from the National Wilms Tumor Study Group. Am Soc Clin Oncol. 2005;23(16S):802S.
  10. Fuchs J, Kienecker K, Furtwängler R, Warmann SW, Bürger D, Thürhoff JW, et al. Surgical aspects in the treatment of patients with unilateral wilms tumor: a report from the SIOP 93-01/German Society of Pediatric Oncology and Hematology. Ann Surg. Apr 2009;249(4):666-71.
  11. Kalapurakal JA, Nan B, Norkool P, Coppes M, Perlman E, Beckwith B, et al. Treatment outcomes in adults with favorable histologic type Wilms tumor-an update from the National Wilms Tumor Study Group. Int J Radiat Oncol Biol Phys. Dec 1 2004;60(5):1379-8

Tê mê cá linh non

Tê mê cá linh non

04/08/2013 11:14 (GMT + 7)
 
TT - Khoảng đầu tháng 7 âm lịch, nước ở đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu đỏ quạch một màu, gọi là “nước đổ”. Lúc này cá linh non lại về.
Theo Nguyễn Văn Hầu, người ta gọi nước đổ là vì “nước chỉ từ nguồn (Biển Hồ) đổ xuống biển, không chảy lên”, “mỗi năm, khi nước bắt đầu đổ thì trứng cá linh nở thành con. Chúng bị làn nước “giang hồ phiêu bạt”, lênh đênh vượt biên thùy. Ven đồng Tháp Mười về phía Tiền Giang cũng như các vùng đồng bằng Cỏ Lau, Bắc Đai, Láng Linh, miền Hậu Giang, là những nơi trú ẩn tốt cho chúng” (Nửa tháng trong miền Thất Sơn). Đó là mùa cá linh non.
“Phía trong miền Hồng Ngự (Đồng Tháp) nó (cá linh - NV) lội đầy rạch, chỉ việc lấy thùng thiếc mà xúc. Hồi lúa rẻ, mỗi thùng chỉ bán có một cắc. Ăn không hết làm nước mắm và mắm cũng không hết, có khi người ta phải đổ đi, hoặc dùng làm phân bón thuốc (thuốc lá)” (Nguyễn Hiến Lê, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười). Để bắt cá linh non, ngày nay người ta dùng vó, đăng, lọp... nhiều nhất là đáy, nhưng thu hoạch chẳng là bao so với ngày xưa. Tất nhiên giá cá linh non bây giờ cao ngất trời, là đặc sản cao cấp ngay tại rún cá, ngự trong thực đơn các nhà hàng hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Nhưng muốn thưởng thức cá linh non đúng điệu phải chịu khó lên Khánh An, Long Bình (An Phú, An Giang) hay Thanh Bình, Tam Nông (Đồng Tháp). Món cá linh non ở miệt cận biên này giúp ta thỏa thuê bụng dạ vì chúng mới đánh bắt, còn tươi xanh.
Món ngon cá linh non là chiên bột ăn kèm rau sống chấm nước mắm chua ngọt. “Linh diệu” nhất là kho lạt. Cá linh non tươi, ăn sương, ăn bọt nước đất trời, chỉ cần rửa sạch là xong. Bắc nồi nước và me non tươi nấu sôi, nêm nếm gia vị vừa khẩu vị, liền tay sớt đĩa cá linh non vào. Nước sôi vài dạo, nêm gia vị, cho bông điên điển trộn bông súng ngắt khúc cùng rau om vào, múc ra tô, cả nhà cùng ăn.
Thưởng thức cá linh non kho lạt cao cấp phải dùng đến cái lẩu. Lẩu nước và me non tươi sôi vài dạo, nêm nếm gia vị vừa ăn thì thả cá linh non vào. Vậy là người ta bốc từng nhúm bông điên điển đầu mùa mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cùng lúc cá linh non về, vào lẩu. Cùng với bông điên điển vàng tươi màu nắng là những cọng bông súng tước bỏ vỏ, ngắt khúc, bóp vắt nước thả vào. Rau nhúng lẩu nhanh tích tắc, gắp ra, có lẫn cá linh vừa chín tới, chấm muối ớt, cho vô miệng, nhai, nghe “hương đồng cỏ nội, sông sâu nước cuốn” lan tỏa khấu cái, không phải món nào, ở đâu cũng có được. Vị chua của me, vị ngọt béo của cá, vị làn lạt, giòn giòn hoang dã của bông điên điển, của bông súng hòa tan mặt lưỡi, lan thấm vòm hầu. Riêng chất nước ngọt của cá chảy thấm tận đáy dạ dày. Bao vị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác và cả thị giác đều tê mê trong món ngon này.
Người vùng cận biên An Giang còn kho lạt cá linh non với trái bứa. Những con cá nhỏ hơn mút đũa thấm đẫm vị chua hoang dã của trái bứa. Rồi vị măn mẳn của muối, nước mắm cá linh hòa trong vị ngọt thịt cá quyến luyến chân răng. Lẫn trong vị giác không gì hơn những búp bông điên điển đầu mùa, bông súng đồng ngắt khúc, nhúng nước cá, vừa hơi héo, đủ nổ giòn chân răng. Món ăn cay nồng vị ớt. Ai ăn không ghiền, không thèm vì mùa cá linh non mỗi năm chỉ có một lần, chưa đầy một tháng!
PHÙ SA LỘC
Ngon và gợi nhớ
Nước không chưn sao kêu nước đứng 
Cá không thờ sao gọi cá linh
Đối với cư dân sống trong lưu vực đồng bằng sông Cửu Long, khi nhắc đến cá linh luôn tạo một cảm xúc trào dâng khó tả. Cá linh có thể chế biến thành hàng trăm món, nhưng ngon hơn hết vẫn là món lẩu cá linh non và cá linh non kho lạt. Cá linh ăn ngon không phải vì cá còn non, béo, ngọt thịt, hầu như không có xương, mà ngon còn vì được ăn kèm với bông súng đồng, bông điên điển và hoa lục bình... là những đặc sản mà thiên nhiên ban tặng cùng với cá linh, được xem như “thực phẩm chức năng” trong mùa nước lũ. Những anh nông dân mới hôm nào, nay biến thành ngư dân ngồi bên nồi lẩu ngào ngạt hương đồng gió nội, nhâm nhi với ly rượu gạo. Khi đã ngà ngà say, trong cảnh sông nước mênh mông, những ngư dân này phút chốc bỗng trở thành tài tử ngân lên sáu câu vọng cổ làm bạn tê tái tâm hồn.
Vậy đó, ăn cá linh không phải chỉ hưởng giá trị dinh dưỡng dồi dào từ chúng, mà còn gợi nhớ đến vùng quê có một mùa gọi là mùa nước lên.
BS CKI NGUYỄN THANH HẢI
(Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương)

Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

Chiếc máy cassette cũ

Chiếc máy cassette cũ

Đã lâu lắm đêm nay mình mới có đủ thời gian nghe trọn vẹn bài hát ru được phát ra từ một chiếc máy cassette đã cũ đã hơn 30 tuổi. Đó là món đồ quý giá nhất mà mẹ được cha tặng, người đã giữ gìn bên mình mang theo từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc và Nam. Trong quãng đời truân chuyên mấy mươi năm, mẹ vẫn giữ chiếc máy như một minh chứng cho sự thủy chung dù cha có phụ rẫy mẹ đến thế nào đi chăng nữa.
Khi mẹ mất, chiếc cassette bị bỏ quên trong một chiếc thùng sắt lẫn lộn với những món đồ cũ khác không dùng, mình gặp nó khi dọn dẹp để bỏ đi một món đồ không cần thiết. Trong chiếc máy nguyên một cuộn băng, mình bỏ pin vào máy. Đó là một cuốn băng hát ru. Rưng rưng lần theo kí ức, mình gặp lại quãng đời thơ ấu bên mẹ.
“Con tôi buồn ngủ buồn nghê / Buồn ăn cơm nếp cháo kê, thịt gà…“. Mẹ hát ru chị em mình suốt những năm tuổi nhỏ. Cả khi mình đã thành thiếu nữ. Những đêm Đông khó ngủ vì thiếu chăn, thiếu đệm, lời ru của mẹ phủ ấm quanh mình. Mình vùi đầu vào ngực mẹ uống lấy lời ru rồi mơ có đôi cánh thần tiên bay qua cánh đồng, vút lên bầu trời cao rộng, qua núi cao và biển sâu. Câu hát ấy 20 năm sau mẹ lại hát ru đứa cháu ngoại đầu tiên, con gái của mình.
Giọng mẹ hay lắm. Nồng nàn, tha thiết và thắm đượm tình yêu. Lời ru ấy không chỉ có âm thanh mà còn gợi lên hình ảnh, màu sắc và cả hương thơm nữa. Lời ru của mẹ êm đềm như dòng sông Thương quê mình. Có hương thơm của bờ xôi ruộng mật; của góc bếp lam lũ sợi khói tung lên trời mang hương cơm lúa mới; của chiếc khăn thâm kim nồng mùi mồ hôi của mẹ trên những nẻo đường xa ngược gió. Có màu đen lóng lánh của hàm răng hạt na của bà; có màu nắng mới giữa mùa Đông ảm đạm; có màu áo hoa của các con ngày tết… Lời ru của mẹ có câu chuyện kể ngày xửa, ngày xưa, có khát vọng trưởng thành cho “ba hạt đậu xanh của mẹ”. Mình thuộc rất nhiều bài hát ru, mẹ đi vắng, mình lại ngân nga ru hai em tròn giấc ngủ. Mẹ bắt gặp, mỉm cười, giang tay đón ba con, ngực mẹ còn đẫm cơn gió mùa Đông Bắc nhưng trái tim mẹ lại ấm như chiếc lò sưởi xua cơn giá rét ấy đi. Chúng mình đã rất hạnh phúc…
Những ngày cuối cùng của mẹ, mình hát ru những cơn đau của mẹ, mẹ bé nhỏ lỏng một vòng tay mình bế, người nắm lấy tay mình đặt tay các em vào đó rồi người khép mắt. Mùa Đông năm ấy cái rét kéo dài lê thê, mưa nhỏ nhưng sắc, cắm phập vào thịt da, gò đống Mối ảm đạm… Mình ngồi đó trong đầu vẳng lại câu hát ru của mẹ những đêm khó ngủ. Lời ru xa vắng quyện vào nỗi day dứt mình không thể cầm tay mẹ vững chãi băng qua đường, chở mẹ đến những nơi mẹ muốn, nói những lời yêu thương với mẹ… Kí ức là điều đã qua nhưng sẽ không bao giờ cũ kĩ bởi còn nỗi nhớ lúc nào cũng tươi ròng cảm xúc.
Mình luôn xem mình là đứa hạnh phúc nhất trên cõi đời, dù cho biến cố ở đâu đó luôn sẵn sàng đổ xuống, có lúc đã muốn tước đi của mình tất cả… Nhưng bất hạnh đó chẳng thể lớn bằng hạnh phúc thực sự rằng mình đã có một người mẹ vĩ đại. Người mẹ ấy biết con mình thiếu gì, cần gì, khi nào vấp ngã để nâng con dậy cả khi người đã về nơi chín suối.
Chừng ấy năm mẹ ngừng tiếng hát. Mình ôm con ru hời câu ca cũ. Giọng mình không trong, không ngan ngát hương lúa chín, không thoang thoảng mùi ngô nếp nướng, mùi rơm rạ ngày mùa, không màu của đường làng ngõ quê. Giọng mình có màu của năm tháng thăng trầm, có nỗi buồn dồn lại như từ muôn kiếp trước nhưng cũng đủ thanh bình để ru con ngủ, đủ ngọt để con say nồng giấc ngủ. Con của mình đã quen những lời ru, nếu đêm nào các con không được mẹ ru và xoa lưng sẽ trằn trọc. Vì thế dù bận đến như thế nào vào thời khắc đó mình cũng gác mọi thứ lại, ôm con vào lòng và hời ru. Mình không muốn các con ngủ trong chới với của tiếng ồn cơ giới và ì xèo buôn bán ở bên ngoài cánh cửa.
Băng cũ, máy cũ, tiếng hát ru của người nghệ sĩ trở nên rè, nặng nhọc như bước chân của người già đã đội lên đời mình cái tuổi “cổ lai hy”. Mình men theo tiếng hát gãy khúc để tìm về hình bóng mẹ: mái tóc quà quá gót, đôi mắt thăm thẳm, khóe môi dịu dàng. Mình như được dựa vào mẹ lúc này, lúc buồn tủi, cô đơn để thấy rằng tình yêu thương có thể khiến con người ta bao dung hơn, vững vàng hơn, bớt oán than đi để mỗi ngày mỗi sống đẹp hơn. Mình đã thiếp đi trong lời ru được phát ra từ chiếc mát cassette cũ… Như thời thơ bé mình nhảy chân sáo trên cánh đồng tháng Chạp tìm rau muối về mẹ nấu canh tôm, khi ấy mùa Đông có lạnh thế nào mình cũng không sợ nữa...
Sau này chiếc casette phải sửa mấy lần, nhiều đến mức người thợ điện tử khuyên không nên dùng nữa khi tiền sửa góp lại đủ mua một cái máy nghe nhạc loại xịn. Mình chỉ cười, có những điều dù có giải thích đến thế nào không chắc người khác đã hiểu được, như chiếc máy casstte này chẳng hạn, nó đâu phải chỉ là một cổ máy già nua khắc khổ mỗi lần chạy lại run lên bần bật mà còn là hơi ấm của mẹ để lại…